Bạn có biết xuất thân của tên gọi này chứ?
Cu li là một từ cũ, dùng để nói về những người lao động khuân vác hoặc làm những việc nặng nhọc. Cu li cũng là tên của một con vật không có đuôi hoặc có đuôi rất ngắn, tai nhỏ, mắt to rất gần nhau, tứ chi thích nghi với lối sống leo trèo trên cây. Chúng hoạt động kiếm ăn ban đêm, ban ngày cuộn tròn mình lại để ngủ. Vậy nên nhiều người hiểu nhầm Cu li chỉ nghề nghiệp nói trên xuất phát hoặc có liên quan đến động vật này.
Trên thực tế, Cu li là một từ mượn từ tiếng Pháp là coolie (hay cooli, cooly, kuli, quli, koelie,...) chỉ một nô lệ hoặc người lao động chân tay gốc Á không lành nghề trong suốt thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Tiền thân của từ coolie trong tiếng Pháp là colles/ coles (mượn từ tiếng Bồ Đào Nha, được dùng trong tiếng Pháp lần đầu năm 1638, chỉ người kuli, một tầng lớp thấp hèn ở vùng Goudjerate/ Gujurati thuộc miền Tây Ấn Độ), colys (năm 1666), coulis (năm 1758).
Ngoài hai nghĩa trên, cu li còn là tên một loài cây. Cây Lông cu li mọc rải rác khắp các vùng núi ở nước ta, trong đó mọc nhiều nhất ở vùng núi Tây Bắc như: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Điện Biên, Hòa Bình…
Cây có chiều cao thấp (cây mọc ở hai bên đường hoặc rìa cánh rừng) tuy nhiên cũng có khi cao tới 2,5-3m ở những vùng rừng rậm sâu. Lá lớn có cuống dài 1-2m. Phiến lá rộng 60-80cm. Dưới gốc (phía thân cây) có một lớp lông màu vàng và bóng phủ dày đặc, người ta thường lấy phần lông này để cầm máu rất tốt. Nhìn ra phần thân cây sẽ giống với hình thù con vật nên người ta gọi là Lông cu li.